Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Cần chú ý khi nhiễm bệnh viêm gan B

Khoảng một phần ba dân số thế giới, tương ứng với 2 tỷ người, có tiền sử (đã từng bị) nhiễm vi rút viêm gan B, HBV: hepatitis B virus. Trong đó hiện nay có trên 350 triệu người nhiễm vi rút bệnh viêm gan B mạn tính. Tại sao 2 tỷ người có tiền sử nhiễm mà chỉ có khoảng 350 triệu người nhiễm vi rút mạn tính: khi nhiễn vi rút viêm gan B cấp tính trong cơ thể chúng ta sẽ có cơ chế đáp ứng tự nhiên nhằm đào thải vi rút. Khả năng đào thải vi rút tự nhiên phụ thuộc vào độ tuổi nhiễm vi rút viêm gan B, nhiễm ở độ tuổi càng nhỏ thì khả năng đào thải vi rút tự nhiên càng thấp và khả năng chuyển thành nhiễm vi rút mạn tính càng cao. Ngược lại nhiễm ở lứa tuổi trưởng thành thì khả năng đào thải vi rút tự nhiên cao hơn và khả năng chuyển thành nhiễm vi rút mạn tính thấp hơn.
Tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính có tính chất địa lý khác nhau. Khu vực đông nam châu Á – trong đó Việt Nam, Trung quốc, một số nước trung Á, Ả rập, miền trung và miền nam châu Phi, khu vực bắc nam Mỹ, Alaska và bắc Canada là những vùng đại dịch nhiễm nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính, với tỷ lệ người nhiễm vi rút mạn tính trên 8% dân số. Với mật độ dân cư lớn, nên trên 50% số người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính sinh sống tại khu vực đông nam châu Á và Trung quốc. Vi rút bệnh gan B có thể lây qua đường máu và tiếp xúc dịch cơ thể: từ mẹ sang con, truyền máu và các chế phẩm của máu, tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm, dùng chung dao cạo râu. Đặc điểm đường lây truyền không giống nhau giữa các khu vực trên thế giới, đường lây truyền cơ bản ở các nước có tỷ lệ nhiễm cao trên 8% dân số chủ yếu là truyền từ mẹ sang con, hoặc nhiễm từ thời kỳ trẻ em. Ngược lại ở các nước và các khu vực có tỷ nhiễm thấp, chủ yếu nhiễm vi rút viêm gan B khi đã ở lứa tuổi trưởng thành và đường lây truyền chính là tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm, truyền máu và các chế phẩm máu. Những người nghiện ma túy và gái mại dâm là nhóm nguy cơ cao nhiễm vi rút viêm gan B. Ngoài ra nhân viên Y tế cũng là những người có nguy cơ nhiễm vi rút viêm gan B cao hơn người bình thường.
Vi rút viêm gan B là nguyên nhân hàng đầu gây viêm gan mạn, xơ gan và ung thư gan. Hàng năm bệnh lý liên quan đến vi rút benh gan B là nguyên nhân gây tử vong cho khoảng 1 triệu bệnh nhân. Người nhiễm vi rút viêm gan B có nguy cơ bị ung thư gan cao gấp 200 lần so với người không nhiễm vi rút. Mỗi năm thế giới có khoảng 600.000 trường hợp ung thư gan mới mắc được phát hiện, trong đó có tới 80% nguyên nhân là do vi rút viêm gan B.
Tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính tại Việt Nam trên 8% dân số và một số tỉnh có thể lên đến 15-20%, ước tính hiện nay tại Việt Nam có khoảng 12-14 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính. Phần lớn người Việt Nam nhiễm vi rút viêm gan B là thông qua con đường mẹ truyền cho con hoặc nhiễm khi còn ít tuổi, do vậy trong trong một thời gian dài trước khi đến tuổi trưởng thành ở trong giai đoạn dung nạp miễn dịch và không có biểu hiện bệnh lý. Khi bước vào độ tuổi 20 – 40, có người biểu hiện bệnh lý viêm gan rầm rộ, nhiều người chỉ thấy hơi mệt mỏi, ăn kém hoặc có biểu hiện giống cảm cúm do vậy dễ bỏ qua, thậm chí có người hoàn toàn không có triệu chứng. Chính vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi nhiều người đi khám thì bệnh đã chuyển sang giai đoạn xơ gan hoặc đã bị ung thư gan, thậm chí nhiều người bệnh đã ở giai đoạn muộn và các biện pháp can thiệp của Y học đã không còn khả năng phát huy tác dụng điều trị hữu hiệu.
Biện pháp tốt nhất để làm giảm tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B là tiêm phòng vắc-xin. Tổ chức Y tế thế giới đưa ra khuyến cáo đối với các nước có tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B cao nên triển khai chương trình tiêm phòng vắc-xin rộng rãi cho trẻ mới sinh ra. Tất cả các đối tượng thuộc nhóm nguy cơ cao nên đi kiểm tra vi rút viêm gan B, nếu chưa bị nhiễm thì nên tiêm phòng vắc-xin.
Không phải tất cả người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính đều tiến triển thành bệnh lý, chỉ khoảng 15-40% trong tổng số người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính sẽ có tiến triển thành bệnh lý viêm gan và các biến chứng của viêm gan. Do vậy, người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính cần được đánh giá và chẩn đoán giai đoạn nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính bởi các bác sĩ thuộc chuyên khoa Tiêu hóa – Gan mật và Viêm gan; tránh tình trạng lạm dụng chỉ định điều trị và điều trị không đúng, gây nên tình trạng lãng phí về kinh tế – làm trầm trọng thêm đột biến kháng thuốc của vi rút cũng như các tác dụng phụ do thuốc điều trị gây ra. Với thành tựu về dược phẩm và trình độ của Y học hiện nay, không phải tất cả người nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính đều có chỉ định điều trị, chúng ta hiện nay chưa đạt được khái niệm làm sạch hoàn toàn vi rút trong cơ thể người bệnh. Mục tiêu chính của điều trị hiện nay là ức chế tối đa quá trình nhân lên của vi rút viêm gan B – hạn chế tiến trình bệnh lý, làm giảm tỷ lệ bệnh nhân xơ gan-ung thư gan và giảm tỷ lệ tử vong đối với bệnh lý do vi rút viêm gan B gây ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét